Ghi chép của Tyfoon
Vài nhận xét về “thành phần thứ ba” và “hòa hợp, hòa giải dân tộc” - GS. Ngô Vĩnh Long, ĐH Maine
Hàng năm, đến khoảng
tháng 4, báo chí ở Việt Nam lại có một vài bài về “hòa hợp, hòa giải dân tộc”
trong đó có đề cập đến vai trò của “thành phần thứ ba.” Năm nay tờ báo Đại
Đoàn Kết, cơ quan trung ương của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, trong bài với
tựa đề “Kỷ niệm 36 năm Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
(30-4-1975/2011): Đóng góp của ‘thành phần thứ ba’ cho ngày chiến thắng” có
viết như sau:[1]
Nhắc lại sức mạnh của
tinh thần đại đoàn kết, cũng như con đường tất yếu để đi đến hòa hợp, hòa giải
dân tộc, ông Kiệt cho rằng: “Theo tôi, đã đến lúc ta phải nhìn nhận công lao,
sự đóng góp to lớn của các tầng lớp người Việt yêu nước từng sống trong lòng
chế độ cũ, hiện ở trong nước hay ở bên ngoài. Bản thân tôi cùng với anh em được
giao tiếp quản Sài Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc chiến
tranh như vậy, tôi nghĩ không thể không nói đến vai trò của các lực lượng chính
trị đối lập với Mỹ - Thiệu, có quan hệ với chính phủ Dương Văn Minh lúc bấy giờ
.… Sự xuất hiện trở lại trên chính trường của ông Dương Văn Minh chính là kết
quả hoạt động tích cực của lực lượng thứ ba, lực lượng những người đấu tranh
với Mỹ - Thiệu ngay trong lòng chế độ Sài Gòn bấy giờ.”
Nguyên Phó Chủ tịch nước
Nguyễn Thị Bình thẳng thắn thừa nhận: “Nhiều người ngại nói đến lực lượng thứ
ba, nhưng theo tôi, lực lượng này đã có những đóng góp nhất định vào thắng lợi
của nhân dân ta”. Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam do luật sư
Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch là một liên minh rộng lớn đại diện cho nhiều tổ
chức, đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, các cá nhân yêu nước thuộc nhiều thành
phần trong xã hội trong và ngoài nước, sĩ quan và viên chức kể cả cấp cao của
chính quyền Ngô Đình Diệm. Với chính sách ngoại giao “hòa bình và trung lập”,
Mặt trận đã tranh thủ được đông đảo các lực lượng yêu chuộng hòa bình và công
lý trên toàn thế giới, bao gồm cả phong trào phản chiến ở Mỹ, kể cả những
người khác xa về chính kiến, tạo nên một mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn
chưa từng có, đoàn kết với cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.
Chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa và nhiều nước, châu Á, Phi, Mỹ La-tinh đã
chính thức công nhận Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam về mặt chính
phủ. Cách mạng miền Nam ngày càng thắng lớn, Mặt trận càng có điều kiện mở
rộng, tập hợp thêm lực lượng. Sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, ngày
20-4-1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam ra đời
do Luật sư Trịnh Đình Thảo, nhà trí thức yêu nước nổi tiếng ở miền Nam làm Chủ
tịch. Thắng lợi mang tính chiến lược của cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu
Thân 1968 buộc đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải chấp nhận ngồi vào bàn
đàm phán tại Hội nghị Paris nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam, trong đó Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một bên đại diện
cho cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta ở miền Nam. Với sự lớn mạnh về
mọi mặt của cách mạng miền Nam, ngày 06-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, kịp thời phục vụ cuộc đấu tranh về
ngoại giao trên bàn đàm phán bốn bên, đưa đến việc ký kết Hiệp định Paris ngày
27-01-1973. Ký Hiệp định Paris, Chính phủ Mỹ phải cam kết tôn trọng độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, quyền tự quyết của
nhân dân ta ở miền Nam, rút quân về nước, công nhận tình hình thực tế ở miền
Nam có hai chính quyền, hai quân đội và ba lực lượng chính trị. Theo bà Nguyễn
Thị Bình, trong thời gian đàm phán ký kết Hiệp định Paris 1973, nhiều cá nhân
và nhóm chính trị rất đa dạng được hình thành, có người và nhóm do Mặt trận vận
động tổ chức, có người và nhóm không có liên hệ gì với Mặt trận, nhưng hoạt
động có xu hướng theo mục tiêu đấu tranh của Mặt trận, đó chính là lực lượng
thứ ba. Bà Ngô Bá Thành, Luật sư Trần Ngọc Liểng, một số người trong nhóm tướng
Dương Văn Minh... là một trong những lực lượng đó.
Tại sao tít bài báo đề
cập đến “thành phần thứ ba” trong ngoặc kép trong khi cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
và nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình lại nói đến lực lượng thứ ba không
có nháy nháy? Tại sao tít lại nói đóng góp “cho ngày chiến thắng”
mà không cho hòa hợp, hòa giải dân tộc? Câu bà Bình nói lực lượng thứ ba được
hình thành “trong thời gian đàm phán ký kết Hiệp định Paris 1973” có nghĩa là
bắt đầu từ năm 1968 hay từ hồi nào? Và tại sao bà Bình lại buộc phải nói như
sau: “Nhiều người ngại nói đến lực lượng thứ ba, nhưng theo tôi, lực lượng này
đã có những đóng góp nhất định vào thắng lợi của nhân dân ta”?
Trong bài này tôi xin có
vài nhận xét sơ khởi về những câu hỏi ở trên và về một số “đóng góp nhất định”
của một vài “cá nhân và nhóm chính trị rất đa dạng” mà bà Bình nêu ở trên. Tôi
sẽ đề cập đến việc tại sao trong những năm cuối thập kỷ 60 và đầu 70 của thế kỷ
trước người ta chú trọng đến vai trò của lực lượng thứ ba trong việc “hòa hợp,
hòa giải dân tộc.” Sau đó tôi sẽ đưa ra một vài dẫn chứng tại sao chính quyền
Sài Gòn đã ra sức tấn công các cá nhân và các nhóm trong lực lượng thứ ba sau
khi Hiệp Định Paris được ký kết cuối tháng Giêng năm 1973 và hậu quả là gì sau
này đối với vấn đề đoàn kết dân tộc và việc xây dựng một xã hội dân chủ, hài
hòa.
1. Vài lời về tên gọi
Trước hết xin nói qua về
tên gọi. Cái tên gọi “lực lượng thứ ba” (tiếng Anh là “Third Force”) đã có từ
những năm đầu của thập kỷ 60 và đã được sử dụng ở nước ngoài cho đến những năm
đầu thập kỷ 70. Jean-Claude Pomonti, một phóng viên của báo Le Monde bên
Pháp đã viết là tên gọi “lực lượng thứ ba” được dùng năm 1960 sau khi một nhóm
18 chính khách chống chính quyền Ngô Đình Diệm, nhưng cũng chống Cộng, họp tại
khách sạn Caravelle ở Sài Gòn và đưa ra một bản tuyên ngôn đòi “giải phóng” và đòi
ông Diệm chấm dứt chế độ gia đình trị.[2] André Menras, một giáo viên người
Pháp có tham gia phong trào đô thị ở Sài Gòn, nói rằng một lực lượng thứ ba là
“một phong trào hòa bình đã hình thành và lớn mạnh từ năm 1963 trong cuộc đấu
tranh chống các chính sách của Ngô Đình Diệm.”[3] Theo một số nhân vật trong phong
trào phản chiến của Mỹ thì tên gọi “lực lượng thứ ba” hay “giải pháp thứ ba”
(Third Solution) đã được nhiều người trong phong trào đô thị miền Nam dùng từ
năm 1965.[4]
Tên gọi “thành phần thứ
ba” thì theo ký giả Jacques Decornoy của báo Le Monde đã xuất
hiện vào mùa thu năm 1969 với một nhóm người chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu
và đi theo hướng hòa giải dân tộc mà ông Dương Văn Minh được coi là đại
diện. Decornoy dùng từ “troisième composante” (tức “thành phần thứ
ba”).[5] Theo hồi ký của Nguyễn Hữu Thái,
người đã giúp phần tác động ông Dương Văn Minh đơn phương ngừng bắn và dẫn ông
Dương Văn Minh đến Đài phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975 để ghi âm và phát
lời tuyên bố đầu hàng, thì:
Trong lúc này [từ cuối năm 1968] tôi tiếp xúc được với
những bạn bè đối lập chính quyền và bắt đầu viết cho những tờ báo có khuynh
hướng hòa bình, hòa giải dân tộc. Họ là một nhóm dân biểu Quốc hội Sài Gòn
chống đối lại tướng Nguyễn Văn Thiệu, ngả theo đường lối hòa giải dân tộc của
tướng Dương Văn Minh, trong số họ có người móc nối phối hợp hành động với phía
Mặt trận Giải phóng. Cơ quan ngôn luận của họ là tờ báo Tin sáng,
nơi quy tụ hàng chục cây bút chống đối chế độ và tôi trở thành một trong các
cây bút chủ lực.[6]
Nguyễn Hữu Thái không có đề cập gì đến việc nhóm trên có
tự gọi mình là “thành phần thứ ba” hay không, nhưng hai trang sau đó ông viết
tiếp:
Năm 1971 có bầu cử Quốc hội Sài Gòn, Mặt trận Giải phóng
bí mật đề nghị tôi ra tranh cử với lập trường hòa bình đứng giữa, chuẩn bị cho
'Thành phần thứ ba'. Hội nghị Paris về vấn đề Việt Nam chưa ngã ngũ nhưng đang
bàn đến việc lập chính phủ 3 thành phần, trong đó có thành phần đứng giữa làm
trung gian hòa giải trong chính phủ liên hiệp tương lai.[7]
Tên gọi “thành phần thứ
ba” được bắt đầu dùng là do đề nghị của chính phủ miền Bắc tại hòa đàm Paris về
thành lập một chính phủ liên hiệp gồm ba thành phần, nhưng không phải để áp
dụng cho các nhóm trong phong trào đô thị vận động cho hòa bình, hòa hợp và hòa
giải. Từ năm 1968 các tập san ngoại ngữ miền Bắc và của Mặt Trận Giải Phóng nói
rất nhiều đến phong trào đô thị miền Nam, nhưng không dùng tên “thành phần thứ
ba” hay “lực lượng thứ ba” cho mãi đến năm 1972. Ví dụ, Vietnam
Courier (một nguyệt san của Bộ Ngoại Giao) trong số tháng 12 năm 1972
viết: “Tại Sài Gòn một lực lượng thứ ba đã hình thành như là một thách thức đối
với tên độc tài sừng thiếc [tức ông Nguyễn Văn Thiệu], người mà vẫn cứ phủ nhận
sự tồn tại của lực lượng này.”[8]
Trong suốt thời gian đàm
phán, phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn nhất quyết không đồng ý có một chính phủ
liên hiệp gồm ba thành phần như phía cách mạng đề nghị. Tuy nhiên, cuối cùng,
khi “Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh Lập Lại Hòa Bình ở Việt Nam” được ký ở
Paris cuối tháng Giêng năm 1973 thì điều 12 của Hiệp Định này có nói đến việc
thiết lập một “Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần
ngang nhau”:
a) Ngay sau khi ngừng
bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên tinh thần hòa giải và hòa
hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính nhau để thành lập Hội đồng
quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau. Hội đồng sẽ
làm việc theo nguyên tắc nhất trí. Sau khi Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa
hợp dân tộc nhậm chức, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương để thành lập
các hội đồng cấp dưới. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ký một hiệp định về các
vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam càng sớm càng tốt, và sẽ làm hết sức mình
để thực hiện việc này trong vòng chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam là hòa bình, độc lập và
dân chủ.
b) Hội đồng quốc gia hòa
giải và hòa hợp dân tộc có nhiệm vụ đôn đốc hai bên miền Nam Việt Nam thi hành
Hiệp định này, thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, bảo đảm tự do dân chủ.
Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do và
dân chủ như đã nói trong Điều 9(b) và quy định thủ tục và thể thức của cuộc
tổng tuyển cử này. Các cơ quan quyền lực mà cuộc tổng tuyển cử đó sẽ bầu ra sẽ
do hai bên miền Nam Việt Nam thông qua hiệp thuơng mà thỏa thuận. Hội đồng quốc
gia hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng sẽ quy định thủ tục và thể thức tuyển cử
địa phuơng theo như hai bên miền Nam Việt Nam thỏa thuận.
Do đó, các cá nhân và
các lực lượng không thuộc chính quyền Sài Gòn hay Chính phủ Cách mạng Lâm thời
được coi là “thành phần thứ ba.” Tuy rằng danh từ “thành phần” (tiếng Anh là
“segment” hay “component”) được dùng trong Hiệp Định Paris và một số văn bản,
chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vẫn thường gọi các thành phần không theo
bên này hoặc bên kia ở miền Nam là “lực lượng thứ ba” và đề cao vai trò của
chúng mãi đến đầu năm 1975 trong việc hòa giải, hòa hợp và việc thành lập một
chính phủ liên hiệp. Sau đây là lời nói của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong một
cuộc phỏng vấn với nhà báo nổi tiếng Pháp tên Jean Lacouture được đăng trên tập
san Vietnamese Studies do Nguyễn Khắc Viện chủ biên: “Việc
thành lập một chính phủ hòa hợp dân tộc ở miền Nam là chìa khóa dẫn đến hòa
bình, và lực lượng thứ ba là một thành phần không thể thiếu được của giải pháp
này. Vì chính trị là nghệ thuật để tạo ra cái gì có thể thực hiện được,
chúng tôi đã đi đến kết luận đây là phương pháp độc nhất có thể dẫn đến hòa
bình. Tôi có thể nói đây là một giải pháp cơ may. Ngoài ra không có giải pháp
nào khác, chỉ có chiến tranh.”[9]
Lời nói trên của ông
Phạm Văn Đồng cho thấy rõ là chính phủ miền Bắc lúc đó coi trọng lực lượng thứ
ba vì họ muốn có một giải pháp hòa bình theo Hiệp Định Paris và không muốn tiếp
tục có chiến tranh. Nhưng, như mọi người đã biết, điều này không thành và cuối
cùng giải pháp quân sự đã được dùng để giải phóng miền Nam. Hậu quả ra
sao đối với lực lượng thứ ba và vấn đề hòa giải, hòa hợp sẽ được đề cập đến ở
phần cuối của bài này. Dưới đây tôi sẽ trình bày sự phát triển của vài nhóm
trong thành phần này cũng như một số đóng góp của các cá nhân trong đó vào giai
đoạn 1968 đến 1975.
2. Một số đóng góp trong
giai đoạn 1968-1972
Như báo Đại Đoàn
Kết đề cập đến ở trên, năm 1968 là cái mốc lớn. Tết Mậu Thân chứng
minh cho dân chúng Mỹ cũng như cho nhiều người Việt Nam trong các thành phố sự
phá sản của chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trước Tết Mậu Thân các chính khách
Mỹ, kể cả Tổng Thống Lyndon B. Johnson, thường lên truyền hình nói rằng họ đến
Việt Nam là để giúp đỡ dân chúng Việt Nam xây dựng một đất nước dân chủ và
thịnh vượng. Họ nói rằng phần lớn người Việt hiểu ý tốt của họ nên ủng hộ chính
phủ Sài Gòn và vì thế “bọn Việt Cộng” chỉ có thể kiểm soát một phần dân chúng
nông thôn ban đêm qua các “hoạt động khủng bố” (terrorist activities) mà thôi.
Nhiều người Mỹ lúc đó tin những lời tuyên truyền như thế, một phần vì số đông
theo đạo Thiên chúa và chống Cộng sản. Thêm vào đó là phần lớn người Mỹ ở
trong các thành thị cho nên khó thông cảm với nông dân Việt Nam mặc áo bà ba
đen hay quần xà lỏn và đi chân đất, mà các phương tiện truyền thông của Mỹ
thường gọi chung là “Việt Cộng” khi họ bị giết chóc hay tàn sát. Nhưng khi quân
đội Mỹ và quân đội Sài Gòn thả bom tàn phá hàng loạt các thành thị miền Nam
trong Tết Mậu Thân thì hàng triệu người xuống đường biểu tình ở Hoa Thịnh Đốn
(cũng như một số thành phố lớn khác) đòi chính phủ Mỹ phải chấm dứt chiến tranh
ở Việt Nam. Trong những người biểu tình này có sinh viên Việt Nam du học tại Mỹ
và cuối tháng 2 năm 1968 một số người này đã thâu thập được 16 chữ ký cho một
bản tuyên bố đòi chính phủ Mỹ và các nước đồng minh phải rút hết quân đội của
họ ra khỏi Việt Nam để người Việt Nam có thể quyết định tương lai của mình.
Nhóm sinh viên này đã đến gặp đại sứ của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa
Thịnh Đốn và các quan chức tại Nhà Trắng ngày 2 tháng 3 để chuyển bản tuyên bố.
Trưa hôm đó các đại diện của nhóm có cuộc họp báo tại Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc
Gia (the National Press Club).[10] Sau đó một số sinh viên này càng
ngày càng hoạt động tích cực và đã giúp các nhóm trong phong trào chống chiến
tranh của Mỹ tìm hiểu, móc nối, và kết hợp hoạt động nhiều hơn với các nhóm
trong phong trào đô thị ở miền Nam.
Tại Việt Nam vào tháng 2
và tháng 3 năm 1968 trong những thành phố mà Mặt Trận Giải Phóng (kết hợp với
quân đội của miền Bắc ở vài nơi, như Huế) chiếm đóng, hàng loạt các tổ chức địa
phương tự gọi mình là “Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình” ra
đời. Riêng tại Huế, liên minh này đã trụ được đến 3 tuần.[11] Các liên minh này bắt nguồn từ
những lực lượng trong phong trào đô thị trước đó chứ không phải tự phát trong
một thời gian ngắn. Sau khi quân giải phóng rút khỏi các thành phố thì các tổ
chức vừa thành lập nói trên nhập lại thành “Liên minh các lực lượng dân tộc,
dân chủ và hòa bình Việt Nam” trong một cuộc họp ngày 20-21 tháng 4 năm 1968
tại một địa điểm gần Sài Gòn. Những người tham dự gồm nhiều trí thức, học giả,
sinh viên, nhà văn, nhà báo, thương gia, công chức, v.v., đại diện cho các
thành phần xã hội, chính trị ở các thành phố miền Nam. Bốn mươi người đã được
bầu vào Ủy Ban Trung Ương của Liên Minh, nhưng chỉ có tên của 10 người được
công bố, vì những người kia thì hoặc là có địa vị cao trong chính quyền Sài
Gòn, hoặc có những vị trí quan trọng trong các thành phố nên sự an toàn của họ
cần được bảo vệ.[12] Hầu hết những người có tên được
công bố là những người gia đình khá giả ở miền Nam; họ có bằng cấp cao và phần
lớn đã du học ở các đại học bên Pháp. Chủ tịch Liên Minh là ông Trịnh Đình
Thảo, một luật sư nổi tiếng ở Sài Gòn, xuất thân từ một gia đình địa chủ giàu
có ở miền Nam. Ông đã được đi Pháp học và vợ ông là một thương gia. Ông Tôn
Thất Dương Kỵ, tổng thư ký Ủy ban trung ương Liên minh Các lực lượng dân tộc,
dân chủ và hoà bình, nguyên là giáo sư sử học tại đại học Huế và đại học Sài
Gòn. Bà Dương Quỳnh Hoa, phó tổng thư ký, là một bác sĩ sản khoa được đào tạo ở
Pháp. Bà này đã có liên hệ với đảng Cộng sản Pháp khi còn đi học. Nhưng không
người nào trong 40 người trong ủy ban trung ương của Liên Minh là đảng viên của
đảng Cộng sản (đảng Lao Động hay các nhánh khác) ở miền Nam.[13] Trái lại, theo Wilfred Burchett
(một nhà báo Úc có quan hệ mật thiết với chính phủ miền Bắc và Mặt Trận Giải
Phóng) và Douglas Pike (tình báo CIA chuyên về phong trào Cộng sản tại Việt
Nam), các thành viên của Liên Minh luôn luôn phủ nhận là họ có quan hệ tổ chức
gì với Mặt Trận Giải Phóng cả, mặc dầu họ chấp nhận những mục tiêu đấu tranh
giải phóng dân tộc của Mặt Trận.[14]
Bản tuyên ngôn của Liên
Minh có những mục tiêu nói chung cũng giống như của Mặt Trận, nhưng những chính
sách đưa ra thì hướng về việc mở rộng ra các vấn đề có thể được đem ra thảo
luận giữa Mỹ và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi có hòa đàm. Liên Minh
nhấn mạnh vấn đề hòa bình và trung lập, và muốn làm cầu nối giữa các thành phần
chính trị chống đối nhau để giúp Mỹ có thể liên lạc với Mặt Trận trong khi vẫn
không thừa nhận Mặt Trận hay nói chuyện thẳng với Mặt Trận.[15] Có thể vì những lý do này cho nên
chính phủ miền Bắc đã cho phổ biến bản tuyên ngôn của Liên Minh trên các phương
tiện truyền thông của mình và thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có lời chào mừng sự ra
đời của Liên Minh.[16] Sau này ông Đồng có viết rằng từ
khi Liên Minh được thành lập “xu hướng cho hòa bình và trung lập đã phát triển
rất nhanh trong các tầng lớp trí thức và tư sản chống chính quyền bù nhìn Sài Gòn.”[17] Wilfred Burchett báo cáo rằng Liên
Minh đã liên hệ được với các tầng lớp nhân dân mà Mặt Trận khó vận động được và
vì thế đã giúp làm cầu nối giữa cách mạng với các thành phần yêu nước trong
chính quyền và quân đội Sài Gòn.[18]
Hơn nữa, Liên Minh giúp
liên kết với các thành phần nhân dân miền Nam không có quan hệ với Mặt Trận
Giải Phóng nhưng muốn có một giải pháp hòa bình dựa trên việc thành lập một
chính phủ liên hiệp gồm ba thành phần mà chính phủ miền Bắc lúc đó đang đề nghị
tại bàn đàm phán Paris. Do đó, Liên Minh có thể trở thành một đại diện của
“thành phần thứ ba”. Mùa hè năm 1968 Wilfred Burchett đã cho biết rằng chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Mặt Trận Giải Phóng nghĩ rằng Liên Minh có thể
đóng một vai trò quan trọng cho giải pháp hòa bình trong quá trình đàm phán.[19] Các quan chức chính phủ miền Bắc
tại Paris cũng cho hai đại diện của phong trào hòa bình Mỹ biết rằng Liên Minh
có thể là một thành phần trọng yếu của một chính phủ liên hiệp.[20]
Đúng như báo Đại
Đoàn Kết viết ở trên, cuộc “tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968
buộc đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại
Hội nghị Paris.” Nhưng những đợt tấn công sau đó đã làm cho Mặt Trận bị thiệt
hại nặng nề và không những bị đẩy ra khỏi nhiều vùng nông thôn miền Nam mà còn
phải rút quân sang các vùng biên giới. Do đó, phong trào đô thị đã có “đóng góp
nhất định” trong việc chi phối sức mạnh quân sự và chính trị của Mỹ và của
chính quyền Sài Gòn, giúp cho Mặt Trận có thời gian và không gian để hồi phục.[21] Hoạt động của phong trào đô thị,
trong đó có Liên Minh, đã giúp cho cách mạng phát huy vai trò chính trị của
mình trong nước và trên thế giới trong khi Mặt trận đang suy yếu trên lãnh vực
quân sự và trong khi chính quyền Mỹ đang đẩy mạnh “chương trình Việt Nam hóa”
(Vietnamization Program) và “chương trình bình định cấp tốc” (Accelerated
Pacification Program) với trung bình khoảng 300 cuộc hành binh “bình định nông
thôn” mỗi ngày theo các báo cáo chính thức.[22] Việc bắt lính và tàn phá nông thôn
đã gây ra hàng loạt cuộc biểu tình tại các thành phố miền Nam chống bắt lính,
chống càn quét, và đòi chính phủ Sài Gòn và Mỹ phải kết thúc chiến tranh “ngay
lập tức”. Những đòi hỏi này còn có phần mạnh hơn đề nghị 10 điểm mà ông Trần
Bửu Kiếm, trưởng phái đoàn đàm phán của Mặt Trận Giải Phóng tại Paris, đã đưa
ra vào ngày 8 tháng 5 năm 1969. Trong đề nghị này Mặt Trận có đòi Mỹ và các
nước ngoài khác rút quân nhưng không bắt buộc đúng thời điểm nào. Hai vấn đề
quan trọng nhất trong đề nghị 10 điểm này là có những cuộc bầu cử tự do và dân
chủ để quyết định một chính thể mới cho miền Nam và việc thiết lập một chính
phủ liên hiệp lâm thời trong thời gian các quân đội nước ngoài đang rút ra khỏi
Việt Nam để bảo đảm việc rút quân và tuyển cử.[23] Mặc đầu đây là một đề nghị có tính
chất bao quát và thỏa hiệp cao nhất đến thời điểm đó, chính quyền Nixon lập tức
bác bỏ và nói đó chỉ là việc “trở lại Hiệp Định Genève” năm 1954. Thêm nữa,
ngày 14 tháng 5 năm 1969 tổng thống Nixon công bố một “kế hoạch cho hòa bình”
(plan for peace) trong đó có những điểm chính sau đây: tất cả các binh lính
không phải từ miền Nam (all non-South Vietnamese troops) sẽ phải rút đi trong
hai giai đoạn; các cuộc bầu cử sẽ được tổ chức bởi “chính phủ theo hiến pháp và
hợp pháp” (constitutional and legal government) của Miền Nam Việt Nam (tức
chính quyền Sài Gòn); và tất cả các thành viên của Mặt Mặt Trận Giải Phóng phải
lột bỏ vũ khí, từ bỏ việc dùng bạo lực, và trở về với “cộng đồng quốc gia”
(national community). Như thế Nixon không những không chấp nhận Mặt Trận là một
thực thể chính trị ở miền Nam mà còn cho là bất hợp pháp nên các thành viên
muốn có quyền công dân trở lại thì phải đầu hàng.
Để chứng minh Mặt Trận
là một thực thể chính trị có sự ủng hộ rộng lớn của nhiều thành phần nhân dân
miền Nam và để làm áp lực Mỹ tại bàn đám phán, Mặt Trận đã cùng Liên Minh thành
lập Chính phủ Cách Mạng Lâm thời tháng 6 năm 1969 với ông Nguyễn Hữu Thọ (chủ
tịch Mặt Trận) làm Chủ tịch Hội Đồng Cố vấn và ông Trịnh Đình Thảo làm phó chủ
tịch. Nhiều ủy ban của Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời sau đó được thành lập từ
làng đến tỉnh trên khắp miền Nam trong khi nhiều chính phủ trên thế giới và
nhiều cơ quan quốc tế đã nhanh chóng công nhận thực thể chính phủ này. Trong
khi Chính Phủ Cách Mạng Lâm thời tạo được thêm hậu thuẫn thì chính quyền Sài
Gòn lại càng bị phản đối vì chính sách hiếu chiến. Những cuộc biểu tình chống
chính quyền Sài Gòn đòi hòa bình và những cuộc đình công đòi quyền sống càng
ngày càng nhiều và càng lớn trong các thành phố miền Nam, tạo nên sự liên kết
của nhiều thành phần trong xã hội. Một ví dụ là vào ngày 25 tháng 6 năm
1970 124 công đoàn với tổng số hơn 100 ngàn công nhân trong vùng Sài Gòn, Chợ
Lớn, Gia Định tuyên bố sẽ tổng đình công. Những công đoàn khác, Phong trào
Thương Chiến Binh, Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang, Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, và
một vài tổ chức khác lập tức hứa ủng hộ đình công. Trong cùng ngày Huỳnh Tấn
Mẫm, một sinh viên đã bị chính quyền Thiệu-Kỳ bắt giam và tra tấn dã man, sau
khi được bầu làm chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn dẫn một đoàn đại diện sinh
viên đến trụ sở Tổng Liên Đòan Lao Công Việt Nam để gặp các lãnh tụ của các
công đoàn đình công và cam kết sự ủng hộ hoàn toàn của toàn thể sinh viên.
Trước đó, trong cùng ngày, Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn đã đưa ra một nghị quyết
trong đó có những điểm như sau: (1) lập tức ngưng chiến tranh; (2) lập tức rút
toàn bộ quân đội Mỹ và đồng minh; (3) lập tức trả độc lập lại cho Việt Nam; và
(4) lập tức bỏ hẳn các chương trình đào tạo quân sự. Sau cuộc gặp mặt giữa các
lãnh tụ sinh viên và công đoàn, hai bên ra một thông cáo chung trong đó nhiều
điểm giống như công bố của sinh viên ngày 22 tháng 6 và nghị quyết ngày 25
tháng 6. Hai bên kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam cho sự tranh đấu của công
nhân.[24] Theo báo New York Times ngày
17 tháng 7 năm 1970 Tổng thống Thiệu lo sợ đến nổi đã ra lịnh đàn áp tất cả các
phong trào đòi hòa bình. Tờ báo trích lời tuyên bố của ông Thiệu: “Tôi sẵn sàng
đập tan tất cả các phong trào đòi hòa bình với bất cứ giá nào bởi vì tôi vẫn
thật sự là một chiến sĩ….Chúng tôi sẽ đánh chết những ai đòi lập tức có hòa
bình” [I am ready to smash all movements calling for peace at any price because
I’m still much of a soldier…. We will beat to death the people who are
demanding immediate peace.] Tờ New York Times vừa trích cũng
cho biết là trong cùng ngày Trung tướng Trần Văn Hai, tổng tư lệnh Cảnh Sát
Quốc Gia, đã ra lệnh cho các cảnh sát trưởng dùng “các biện pháp mạnh, kể cả
lưỡi lê và đạn” [strong measures, including bayonets and bullets] để đập tan
các cuộc biểu tình.[25]
Trước tình hình kể trên,
ngày 17 tháng 9 năm 1970 Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình của Chính phủ Cách mạng
Lâm thời đưa ra đề nghị “8 điểm” trong đó có nói đến việc bầu cử để thành lập
một chính phủ phản ánh các khát vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam về hòa
bình, độc lập, trung lập, dân chủ, và hòa giải, hòa hợp dân tộc. Điểm 5 đề cập
đến một chính phủ liên hiệp lâm thời gồm 3 thành phần: những nhân vật của Chính
phủ Cách Mạng Lâm Thời; những nhân vật yêu chuộng hòa bình, độc lập, trung lập
và dân chủ trong chính quyền Sài Gòn; và những nhân vật của các lực lượng chính
trị và tôn giáo, trong hay ngoài nước, có lập trường ủng hộ hòa bình, độc lập,
trung lập và dân chủ.[26]
Đề nghị “8 điểm”, mà sau
này phần lớn đã được đưa vào Hiệp Định Paris năm 1973, tạo được rất nhiều dư
luận ủng hộ trên thế giới và cả ở nước Mỹ nên Nixon ngày 7 tháng 10 năm 1970
buộc phải trả lời bằng cách tuyên bố trên các đài truyền hình Mỹ một “phương án
hòa bình” nữa. Trong đó Nixon đòi rằng điều kiện tiên quyết cho một cuộc đàm
phán là một “cuộc ngưng bắn tại chỗ” (ceasefire-in-place) và việc thả hết tất
cả các tù binh của Mỹ; rằng cuộc đàm phán là phải với hết tất cả các nước Đông
Dương (tức hai miền Việt Nam, Lào và Kampuchia) chứ không chỉ có với Việt Nam;
rằng Mỹ và miền Bắc “rút quân cùng lúc” (mutual troop withdrawal) khỏi miền
Nam; rằng một giải pháp chính trị cho miền Nam sẽ theo các thủ tục được đồng ý
trong tương lai.[27]
Nhiều thành phần nhân
dân miền Nam lúc ấy phản đối đòi hỏi vô lý của Nixon. Sau một thời gian vận
động, ngày 11 tháng 11 năm 1970 khoảng 1000 đồng bào gồm đủ các giới tham dự
buổi hợp do Ủy Ban Đòi Quyền Sống Đồng Bào, Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban
Phụ Nữ Đòi Quyền Sống, và Nghiệp Đoàn Giáo Chức Tư Thục tổ chức tại đại học xá
Minh Mạng thành lập “Mặt Trận Nhân Dân Tranh Thủ Hòa Bình” (MTNDTTHB). Tuyên
ngôn cho biết là MTNDTTHB “được thành lập với mục đích kết hợp mọi tầng lớp
nhân dân trong và ngoài nước, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, xu hướng và
quá khứ cùng chung một ý chí đem lại Hòa bình cho đất nước.”[28]
Sự ra đời của MTNDTTHB
giúp Mặt Trận Giải Phóng chứng minh rằng một giải pháp ngưng chiến tranh dựa
vào giải pháp hòa đàm sẽ được sự ủng hộ của nhân dân trong nước và trên thế
giới. Ngày 10 tháng 12 năm 1970 bà Nguyễn Thị Bình tuyên bố là sẽ có đình chiến
giữa quân đội Giải Phóng và quân đội của Mỹ và đồng minh nếu họ hứa sẽ rút quân
trước ngày 30 tháng 6 năm 1971. Bà Bình cũng nói là sẽ có ngưng bắn giữa quân
đội Giải Phóng và Sài Gòn sau khi hai bên đồng ý thành lập một chính phủ lâm
thời gồm 3 thành phần như đã được nêu trong đề nghị “8 điểm.” Nhưng Nixon không
muốn có đình chiến, chỉ muốn leo thang chiến tranh hòng làm suy yếu phe cách
mạng và củng cố chính quyền Sài Gòn vì Nixon không tin tưởng ở khả năng chính
quyền này có thể tồn tại trong một giải pháp hòa bình dựa vào đấu tranh chính
trị trong một chính phủ liên hiệp. Do đó, ngày 8 tháng 2 năm 1971 Mỹ và chính
quyền Sài Gòn đã đưa hơn 45 ngàn quân vào khu vực đường 9 nam Lào, với ý định
chiếm đóng toàn khu vực đó hòng cắt đứt mọi chi viện cho Mặt Trận từ miền Bắc.
Nhưng lý do mà Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird tuyên bố là để bảo vệ sinh
mạng của Mỹ và để “bảo vệ chương trình Việt Nam hóa” (to protect the
Vietnamization program.)[29]
Mặc dầu đây là một cuộc
hành quân với quy mô rất lớn, tin tức về cuộc hành quân này đã bị lộ ra nhiều
ngày trước. Do đó, theo hầu hết các báo Sài Gòn đăng vào ngày 5 tháng 2 năm
1971, Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Phụ Nữ Đòi Quyền Sống, và Mặt Trận
Nhân Dân Tranh Thủ Hòa Bình đã ra thông cáo chung phản đối việc Mỹ và chính
quyền Thiệu mở rộng chiến tranh sang Lào. Thông cáo nói rằng đây là một cuộc
leo thang chiến tranh rất nguy hiểm theo học thuyết Nixon về việc dùng người
Đông Dương để giết nhau. Do đó, thông cáo nói là để chấm dứt cuộc tàn sát vô
nghĩa tất cả quân đội Mỹ và đồng minh phải lập tức và hoàn toàn rút khỏi Đông
Dương. Theo báo Tin Sáng, tờ báo của nhóm dân biểu Công giáo trong
Quốc hội Sài Gòn và là tờ báo lớn nhất ở miền Nam lúc ấy, ngày 8 tháng 2 hơn
8000 người biểu tình chống việc đưa quân sang Lào. Đại diện của nhiều nhóm
thuộc nhiều thành phần (phụ nữ, sinh viên, công nhân, chính trị, tôn giáo) đòi
chồng con, anh em của họ phải được trở về với gia đình. Chính quyền Sài Gòn bắt
giữ và đánh đập nhiều người biểu tình, số lớn là sinh viên. Do đó, Tổng hội
Sinh viên Sài Gòn buộc công bố một “tối hậu thư” đòi những sinh viên và bạn bè
của họ phải được trả tự do trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nhưng chính quyền Sài
Gòn trả lời bằng cách đưa cảnh sát dã chiến và quân cảnh của Mỹ đến tấn công cư
xá sinh viên Minh Mạng. Sinh viên trả thù bằng cách đốt các xe quân cảnh của Mỹ
trên đường phố.[30] Ngày 14 tháng 2 năm 1971 sinh viên
đốt 15 chiếc xe quân sự của Mỹ tại Sài Gòn và phát hơn 250 nghìn truyền đơn
chống việc Nixon leo thang chiến tranh.[31] Ngày 15 tháng 2 năm 1971 tại Sài
Gòn 14 tổ chức đã đưa ra một thông cáo chung trong đó họ đòi Mỹ phải rút quân
ngay lập tức khỏi Đông Dương và ngưng mọi hoạt động trá hình nhằm mở rộng chiến
tranh và cản trở việc tái lập hòa bình. Khẩn hiệu của các nhóm này đã đổi từ
“chống Mỹ cứu nước”, “đuổi Mỹ cứu nước,” sang “diệt Mỹ cứu nước.” Từ đó trở đi
hầu như mỗi ngày là có xe quân đội Mỹ bị đốt cháy trên đường phố Sài Gòn như
các báo Sài Gòn đã đăng tin. Báo Dân Chủ Mới ngày 26 tháng 10
năm 1970 đăng một bài dài của GS Nguyễn Văn Trung, khoa trưởng Đại học Văn Khoa
và là một người Công giáo, giải thích tại sao nhiều người Việt Nam đã trở thành
những người thù Mỹ đến độ thấy xe Mỹ là đốt, thấy lính Mỹ là đánh.
Thông tin về phong trào
đô thị và hoạt động của sinh viên miền Nam trong thời gian này được phổ biến
rất rộng rãi tại Mỹ một phần vì người đại diện chính thức của Tổng Hội Sinh
Viên Sài Gòn đã thiết lập quan hệ tốt với báo chí Mỹ, với các tổ chức trong
phong trào chống chiến tranh tại các đại học, và với Hiệp Hội Sinh Viên Quốc
Gia Hoa Kỳ (United States National Student Association, USNSA). Một ví dụ điển
hình là đại diện này đã thúc đẩy USNSA tổ chức một hội thảo quốc tế tại
Georgetown University ở Hoa Thịnh Đốn ngày 13-16 tháng 10 năm 1971 gồm đại diện
của hơn 30 nước trên thế giới và hơn 40 đại học tại Mỹ để chủ yếu bàn tình hình
ở Nam Việt Nam và tình trạng của sinh viên Việt Nam trước sự đàn áp của chính
quyền Sài Gòn.[32]
Như đã thấy ở trên,
thông tin về phong trào đô thị được nhiều báo và tập san viết đến, trong đó một
trong những tờ báo quan trọng là tờ Tin Sáng không phải vì nó
là tờ báo lớn nhứt trong khoảng 30 tờ báo ở miền Nam, nhưng vì nó là một tờ báo
tiến bộ với sự cộng tác của nhiều nhân vật quan trọng trong Quốc hội và trong
nhiều thành phần chính trị và tôn giáo tại miền Nam. Thêm vào đó những nhân vật
này phần lớn là người Công giáo, như hai ông chủ biên Ngô Công Đức và Hồ Ngọc
Nhuận, cho nên lời nói của họ được nhiều người Mỹ tin tưởng. Mặc dầu là dân
biểu Quốc hội (nên được hưởng quyền bất khả xâm phạm) và là cháu của Tổng Giám
Mục Nguyễn Văn Bình, Tổng thống Thiệu gọi ông Ngô Công Đức là tay sai Cộng sản
và bắt giam ông Đức 5 ngày năm 1971. Văn phòng của ông Đức bị đặt bom plastic
hai lần trong năm 1970 và cuối cùng bị thiêu rụi vào tháng ba năm 1971. Từ
tháng 3 năm 1970 cho đến tháng hai năm 1972 tờ Tin Sáng bị
tịch thu 295 lần, nhưng hầu hết các số bị tịch thu đã được ban biên tập tìm cách
gởi sang cho Vietnam Resource Center qua hệ thống bưu điện quân sự của Mỹ (APO)
cho nên chỉ vài ngày sau là nhận được. Các báo khác và các thông tin khác cũng
phần lớn qua ngả này và sau đó được nhanh chóng dịch, phân tích, và phổ biến.[33]Ngô Công Đức cũng có quan hệ tốt với
nhiều ký giả nước ngoài và nhiều lần được các tờ báo nước ngoài mời viết bài.
Một ví dụ là bài “Anti-Americanism: Common Cause in Vietnam” (Chống Mỹ: Mục
Đích Chung ở Việt Nam) đăng trong số tháng 2 năm 1971 của tập san The
Progressive tại Mỹ. Dân biểu Lý Quí Chung trong nhóm Tin Sáng (sau
khi Tin Sáng bị đóng cửa thì Lý Quí Chung sang bên Điện
Tín, cùng một nhóm thành lập), thuộc khối Phật giáo trong
Quốc hội và trong cánh của Tướng Dương Văn Minh, năm 1970 xuất bản với một nhà
xuất bản lớn tại Mỹ một cuốn sách gồm nhiều bài dịch từ Tin Sáng.[34]
Qua các hoạt động như trên, “nhiều cá nhân và nhóm chính trị rất đa dạng” (theo lời nói của bà Nguyễn Thị Bình được trích ở trên) đã giúp cho nhân dân trong nước và trên thế giới, đặc biệt là người Mỹ, thấy rõ hơn bộ mặt độc tài của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và tại sao càng ngày càng nhiều người Việt Nam chống chính sách và sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam. Để lừa quần chúng Mỹ và để có thể chứng minh rằng chính quyền Sài Gòn là một chính quyền có chính danh, Mỹ và Thiệu cho tổ chức bầu cử Quốc hội để dọn đường cho việc Thiệu chắc chắn thắng trong cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 3 tháng 10 năm 1971. Các cuộc bầu cử này cũng nhằm phá hoại cuộc đàm phán tại Paris và các đề nghị của Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời về một chính phủ liên hiệp lâm thời, về trung lập, về đình chiến và về tự do. Cương lĩnh bầu cử tổng thống của Thiệu là chính sách “bốn không”: không có chính phủ liên hiệp dưới bất cứ một hình thức trá hình nào, không có nhượng đất đai cho Cộng sản, không có trung lập thiên Cộng, và không có chủ nghĩa Cộng sản được tự do tuyền bá và đảng Cộng sản được hoạt động ở Nam Việt Nam.